Bài học nghệ thuật từ “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75”

(Arttimes) - Chiến tranh, có thể nói, như chưa kết thúc trong cảm hứng sáng tác của các nhà văn đương thời.

Với ý nghĩa đó tiểu thuyết Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 (Nxb Chính trị quốc gia, 2014) của nhà báo - nhà văn Trần Mai Hạnh cho phép chúng ta nghĩ tới tiền đồ của văn học tư liệu, đồng thời cũng xác nhận một thực tế: cho đến nay những tác phẩm viết thành công về chiến tranh chủ yếu vẫn thuộc về những nhà văn đã trải nghiệm nó với tư cách là người trong cuộc. Tiếng nói nghệ thuật của người tham gia trực tiếp chiến tranh, theo tôi, dẫu sao vẫn có quyền năng trong việc chinh phục độc giả.

Bài học nghệ thuật từ “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” - 1
Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75

Nói Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh là một hiện tượng văn chương bởi chính “cái nhìn ngược sáng” của tác giả thể hiện rất rõ trong tác phẩm. Đã trở thành một truyền thống, viết về chiến tranh thông thường nhà văn chọn góc nhìn thuận, như nghệ sĩ nhiếp ảnh chọn góc độ ống kính thuận chiều ánh sáng khi tác nghiệp. Nghĩa là viết về phe chính nghĩa, viết về hình tượng trung tâm là người lính cách mạng, viết với tư thế của người chiến thắng. Việc chọn đối phương, cụ thể ở đây là chính thể Việt Nam Cộng hòa, từ nguyên thủ đến các quan chức cao cấp, các tướng lĩnh đến tận hàng binh sĩ của một chính phủ - mà ta quen gọi là “ngụy”- làm đối tượng miêu tả chính khiến nhà văn sẽ gặp không ít khó khăn, thử thách. Tôi nghĩ, nếu như tạm thời không tính đến tiểu sử thì người đọc sẽ hình dung tác giả của Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 phải là một người trước đó làm việc trong Phủ Đầu Rồng, hoặc là một ký giả (có thể là người Việt, có thể là người nước ngoài) tác nghiệp tại miền Nam Việt Nam vào đúng thời kì lịch sử nước sôi lửa bỏng trong những tháng ngày đáng ghi nhớ về một quá trình sụp đổ không tránh khỏi của một chính thể. Nhưng trong thực tế thì tác giả đóng vai một nhà phân tích và bình luận thời cuộc thông qua một nguồn tư liệu đồ sộ, phong phú, có độ chính xác và tin cậy cao. Xét về phương diện kỹ thuật tiểu thuyết thì tác giả cần phải biết bắt đầu từ đâu và kết thúc ở chỗ nào cho hợp lí. Tôi rất chú ý đến chương mở đầu tiểu thuyết Lễ Giáng sinh cuối cùng (tháng 12 năm 1974). Đó là một mùa Lễ Giáng sinh ảm đạm, như một điềm báo những điều không tốt lành: “Lễ Noel và Tết của dân Công giáo năm nay đã đánh dấu giai đoạn mới trên con đường vác cây thánh giá đẫm máu mà quân đội Sài Gòn vừa đi vừa vấp ngã đã bao hiêu năm nay rồi…” (L’Aurore 4-1-1975). Sự mở đầu ấy không là ngẫu nhiên, nó tất nhiên ứng với cái kết không có hậu ở chương cuối (chương 19) - “Phút tắt thở của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn và chính thể Việt Nam Cộng hòa”.

“Cái nhìn ngược sáng”, như đã nói ở trên giúp tác giả “chui sâu leo cao” vào hang ổ của đối phương để lần đầu tiên bằng hình thức tiểu thuyết tư liệu - lịch sử, tái hiện chân dung một chính thể hiện diện qua những cá nhân từ chóp bu đến ngạch cuối của một chính thể trên đường sụp đổ. Không ngẫu nhiên mà trong tiểu thuyết này tác giả dành trọn 3 chương chỉ để kể về Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu (Chương 8: Thiệu lên gân trong cô độc sợ hãi, Chương 14: Thiệu như ngọn đèn trước gió và Chương 16: Thiệu cuốn gói). Đó là 3 chương đặc tả một nhân vật chóp bu của chính thể Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra đây đó trong các chương còn lại, hình ảnh Nguyễn Văn Thiệu luôn bất chợt xuất hiện đúng lúc trong các sự kiện quan trọng. Đặc biệt trong phần Phụ lục tiểu thuyết đăng nguyên văn bài phát biểu của Nguyễn Văn Thiệu trước khi từ chức. Bài phát biểu này cho người đọc tri nhận đầy đủ về đường đời và bản chất của ông ta. Có thể nói lần đầu tiên qua văn chương tư liệu chúng ta có thể hình dung khá đầy đủ về cuộc đời và số phận của Nguyễn Văn Thiệu trên chính trường cũng như trong đời thường (một người mê tín, một kẻ tham lam và giảo quyệt, một người đàn ông háo sắc,…). Xung quanh Nguyễn Văn Thiệu, độc giả còn biết khá tường tận về hàng ngũ quan chức và tướng lĩnh cao cấp của chính thể Việt Nam Cộng hòa như Trần Thiện Khiêm, Trần Văn Hương, Dương Văn Minh, Nguyễn cao Kỳ, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Đôn, Cao văn Viên, Đặng Văn Quang, Dư Quốc Đống, Nguyễn Khoa Nam,…Mỗi người một vẻ, thăng trầm trên chính trường chẳng ai giống ai nhưng giống nhau ở cái kết cục thảm bại.

“Cái nhìn ngược sáng” cũng giúp tác giả khắc họa chỉ bằng những nét chấm phá nhưng đầy ấn tượng về những người Mỹ vốn được coi là đồng minh và là bạn của chính thể Việt Nam Cộng hòa từ ngài Tổng thống đến vị Đại sứ Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến kéo dài hai mươi năm. Việc Mỹ bỏ rơi chính thể Việt Nam Cộng hòa vào thời điểm năm 1975 ứng với câu nói đầu cửa miệng của người phương Tây: “Không có bạn bè vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn”.

“Cái nhìn ngược sáng” quy định phương pháp viết “nở hoa trong lòng địch” khiến cho những gì được kể ra gây ấn tượng về vị trí trung lập của tác giả (mặc dù ông chưa bao giờ đứng ở vị trí ấy trong quá trình tác nghiệp). “Cái nhìn ngược sáng” giúp tác giả hiểu rõ “nội tình”, “nội cảm” của chính thể Việt Nam Cộng hòa và những đại diện của nó, có tác dụng gia tăng tính chân thực của tác phẩm tới mức như cách thể hiện của nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Một chế độ đổ sụp bởi sức mạnh của súng đạn đè lên nó, thì cái quần láng của những người đàn bà với kiểu may và loại vải do chế độ đó đẻ ra cũng trở nên nhếch nhác, bẩn thỉu” (Di cảo Nguyễn Minh Châu, Nxb Hà Nội, 2009, tr. 262).

Với người đọc hiện nay, dường như đa số say mê đọc văn học hư cấu hơn là văn học tư liệu. Nhưng có một thực tế là văn học tư liệu đã chứng tỏ được quyền uy của mình trong không ít trường hợp. Người đọc hình dung tác giả là một tỷ phú về tư liệu chiến tranh, ở đây là cuộc chiến tranh với những kỉ lục thế giới về độ dài thời gian, về tính phức tạp và mức độ ác liệt, về số lượng bom đạn, và đặc biệt là những hậu họa khôn lường của nó đổ lên đầu người dân Việt Nam bất kể ở phía nào. Nếu có thể nói thì Trần Mai Hạnh được Trời ban cho một đặc ân để tiếp cận một kho tài liệu mật đồ sộ với độ chính xác, tin cậy cao. Đó là một vốn sống gián tiếp mà không phải nhà văn nào cũng có được khi muốn viết về cuộc chiến đã qua. Nguồn tài liệu mà Trần Mai Hạnh sử dụng quả thật là vô đối cả về số lượng và chất lượng. Nhưng một vấn đề đặt ra là, như người ta nói, người giàu là người biết tiêu tiền. Cũng đã có không ít nhà văn vì may mắn mà sở hữu một nguồn tài liệu kếch xù nhưng rốt cục anh ta chìm ngập trong mớ tài liệu ngổn ngang đó như lạc vào mê hồn trận, tác phẩm trở thành một thứ mê lộ. Nhà văn bỗng chốc là tù binh của tài liệu. Nói “quyền uy của tư liệu” là khi người đọc cảm thấy xa lạ với “chủ nghĩa tư liệu” trong quá trình viết của nhà văn. Nói “quyền uy của tư liệu” là nói đến cách thức và thậm chí là bí quyết sử dụng tư liệu vào mục đích viết để tạo nên hiệu quả nghệ thuật cao.

Sẽ có ai đó cho rằng nhà văn trong trường hợp này ỷ vào tư liệu nên không phát huy được cái gọi là hư cấu vốn được xem như là một phẩm tính quan trọng của quá trình sáng tạo. Trong trường hợp của Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh, tôi thấy “quyền uy của tư liệu” không hề cản trở năng lực hư cấu của nhà văn. Trái lại, nếu đọc kĩ tiểu thuyết này sẽ thấy sở dĩ khi tư liệu ùa vào mà tác phẩm không bị xâm thực, xơ cứng, khô khan là vì nó được tổ chức kết cấu, bố cục hợp lí. Cái mạch ngầm của tác phẩm không khó khăn để nhận ra chính là quá trình tự sụp đổ từ bên trong của chính thể Việt Nam Cộng hòa được tác giả dẫn dắt khéo léo qua sự sắp xếp hợp lí các chương, mục và những trích xuất tài liệu hết sức chọn lọc, trở thành điển hình và thuyết phục, đặc biệt qua các nhân vật như là nhân chứng của lịch sử ở phía bên kia.

Nói “quyền uy của tư liệu” là nói đến khả năng chắt lọc, phân tích và tổng hợp tư liệu để nâng lên khái quát trong quá trình viết của nhà văn. Trong quá trình sử dụng tư liệu thì ý thức về cái “toàn cảnh” và cái “cận cảnh” đối với nhà văn là rất quan trọng. Đọc Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 thấy rõ cả hai phương diện này đã được điều hòa nhịp nhàng, cũng cần nói thêm về khả năng tiết chế ngòi bút của nhà văn để không bị sa đà vào phía này hoặc phía kia của tư liệu. Gói gọn trong hơn 400 trang sách, “toàn cảnh” và “cận cảnh” của lịch sử trong dòng chảy bất tận của nó được tác giả điều tiết và cân đối cả hai phương diện. Ở đây phải nói đến phẩm tính của một nhà báo có tầm chiến lược, để không vì sách lược mà làm tổn hại đến một tác phẩm đôi khi người ta coi là nước đôi giữa báo chí và văn chương.

Trong Lời nhà xuất bản (in đầu sách) xác nhận Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 là một cuốn “tiểu thuyết tư liệu lịch sử”, điều đó chứng tỏ quyền uy của văn học tư liệu trong thời hiện đại. Hơn thế cho ta một kì vọng về triển vọng của văn học tư liệu có khả năng song hành cùng văn học hư cấu. Nhưng có một thực tế là văn học tư liệu cũng có quy tắc “chọn mặt gửi vàng” của nó. Người đọc có cảm giác thú vị và thỏa mãn khi thưởng thức Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh với ý nghĩa là “một bức tranh tham khảo sống động về quá trình sụp đổ từ phía bên kia, càng làm nổi bật chiến thắng vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta” (Lời tác giả). Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đã nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2014; Giải thưởng ASEAN, năm 2017; đã có phiên bản tiếng Anh, năm 2017; tính đến nay đã tái bản nhiều lần, số lượng in lên tới hơn 20.000 bản.

Theo Thời báo Văn học Nghệ thuật số 17/2021

Bùi Việt Thắng

Tin liên quan

Tin mới nhất