Hiện tượng thơ Trịnh Công Lộc

(Arttimes) - Mỗi nhà thơ là một thân phận riêng đến với thi ca, sử dụng ngôn ngữ với những tiết tấu, âm luật riêng để biểu đạt cái tôi trữ tình của mình. Trịnh Công Lộc cũng vậy. Thơ anh xoáy sâu vào cái tôi trữ tình, song không phái cái tôi nhỏ yếu, mà là cái tôi mạnh mẽ giàu tính nhân bản anh có được sau thật nhiều nếm trải.

1. Nho nhỏ thôi!

Trịnh Công Lộc sinh năm 1952 ở xã Hoa Lư, huyện Đông Hưng, Thái Bình, quê nhà bên dòng sông Trà Lý, nơi Đã hiện ra những cánh buồm nâu/ Không gian giăng tơ lấp loáng/ Chim gáy mùa thu bay buổi sáng/ Sông xanh đậm buổi chiều…/ Những kỷ niệm nhói lòng thơ bé/ Rưng rức khóc trên tay chị bế/ Cánh buồm dỗ nín từng cơn. Đó là hình ảnh đã hằn sâu vào thời thơ ấu; và ngay từ ấu thơ, đã biết quê hương đang bị giặc chiếm đóng, phải chịu đựng một ký ức đau thương không chỉ với tuổi thơ mà với cả một đời người, hai mươi năm sau, nó vào thơ Trịnh Công Lộc (bài Cánh buồm nâu): Giặc Pháp bắn vào tim mẹ/ Chị không còn! Cánh buồm sững sờ trước mắt/ Trên lưng mẹ bóng chiều lạnh ngắt/ Tím dài mặt sông!...

Hiện tượng thơ Trịnh Công Lộc - 1
Nhà thơ Trịnh Công Lộc

Cũng bởi thơ ca, chúng tôi đã gặp Trịnh Công Lộc vào mùa đông năm 1972, khi đó anh hai mươi tuổi, đang là sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, đã có thơ đăng trên báo Văn Nghệ và Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Anh là người có sáng kiến lập nên Câu lạc bộ Thơ khoa Văn của Đại học Sư phạm Hà Nội, để giao lưu với Câu lạc bộ Thơ Đại học Tổng hợp văn. Vào thời điểm cuối năm 1972, Giáo sư Nguyễn Đình Chú cho xe tới Quảng Bá đón nhóm nhà văn trẻ ở  Quảng Bá đến Đại học Sư Phạm. Không khí chiến thắng không lực Mỹ đang bừng bừng, và thơ ca, và sức trẻ dào dạt, đã khiến cuộc giao lưu của chúng tôi kéo dài đến khuya, vui đến mức phải nhớ nhau, nhớ thật lâu như đời người không bao giờ quên tuổi trẻ của mình… Trong đêm giao lưu đó, Trịnh Công Lộc đọc những bài thơ đầu tay của anh, giọng thơ trong trẻo, cấu tứ gọn và tình thơ sâu, thầm kín…

Sau đêm giao lưu thơ đó, chúng tôi mỗi người đi theo con đường số phận mình. Tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Trịnh Công Lộc về dạy học tại Đông Triều, Quảng Ninh; ít lâu sau được điều chuyển làm Phó trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Đông Triều; rồi tới những năm đầu thế kỷ XXI, anh nhận trách nhiệm Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Qủang Ninh, một tỉnh biên viễn Đông Bắc. Là người “yêu thơ từ khi biết đọc sách”, thời là sinh viên thì “mê thơ hơn mê gái”, được các bạn thơ cùng trang lứa sớm ghi nhận về năng lực thi ca, như nhà thơ Nguyễn Thị Mai cũng trưởng thành từ “cái nôi thơ” Đại học Sư phạm, đã viết: “Năm 1973, khi đang là sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, chúng tôi đã ngưỡng mộ thơ của Trịnh Công Lộc. Thơ anh từ đó dã đi vào lòng, vào sổ tay thơ của nhiều người trong chúng tôi…”. Xuất phát điểm sớm vậy, mà đến năm 2011 Trịnh Công Lộc mới cho xuất bản tập thơ đầu tay mang tên Cánh buồm nâu. Do vậy, có người nhận xét anh là người biết thận trọng; có người cho rằng đó là sự kỹ tính quá… Chúng tôi không nghĩ như vậy, chỉ muốn đọc thơ đã, rồi nói sau. Và khi đọc Cánh buồm nâu, chúng tôi có cảm giác thân gần y như được gặp lại một người bạn từ thuở xa xưa, và người bạn ấy vẫn đang cặm cụi đi trên con đường thơ của mình...

Trịnh Công Lộc được bắt đầu con đường thơ của mình trong cái đà đang lên của Thơ chống Mỹ. Và, do đã được đào tạo cơ bản về văn chương nói chung và về văn hóa thơ nói riêng tại một trường Đại học lớn như Sư phạm Hà Nội, nên ngay từ buổi ban đầu, ngôn ngữ, hình ảnh cho đến hơi hướng thơ Trịnh Công Lộc tươi mới một cách tự nhiên (bài Vẫn cứ là Hà Nội): Hoa sữa thơm, đêm về/ Cầm đắm say đi trước…/ Sông Hồng nghìn năm tuổi/ Vẫn không thấy nét già/ Người Hà Nội trăm tuổi/ Vẫn duyên dáng kiêu sa! Những câu trong bài Nhịp cầu Kinh Bắc, tình thầm kín, đượm một chút buồn lằng lặng, mà đẹp thấm lòng: Một cõi riêng Kinh Bắc/ Đêm nay đỏ môi trầu/ Nhặt thêm vần đắng đót/ Bỏ vào trái tim nhau… Với kinh nghiệm thơ ca của mình, chúng tôi hiểu, những bài thơ cùng những câu chúng tôi dẫn ra ở trên, đặt bút viết có thể ra rất nhanh; nhưng thực ra, để con chữ có thể trôi chảy nơi đầu ngọn bút, nhà thơ phải nuôi nó trong lòng thật lâu. Như thực tế cho thấy, dù vô thức, Trịnh Công Lộc đã lặng thầm nuôi Cánh buồm nâu hai mươi năm trời trước khi đặt bút viết thành bài thơ. Đó là cá tính của nhà thơ Trịnh Công Lộc, anh thường sáng tác sau rất nhiều nghĩ ngợi, nghiền ngẫm. Có lẽ, tiêu biểu cho tính cách nghĩ ngợi, nghiền ngẫm thật nhiều trước khi viết, là bài Nho nhỏ thôi! “Nho nhỏ”, giống như anh về hình thể vóc hạc, xương mai, và cũng hệt như cái tôi trữ tình của anh trong thơ là khiêm nhường mà nặng lòng với đời: Vẫn biết mình nho nhỏ/ Cứ thế này, chầm chậm về sau… Dường như nhà thơ nhoẻn cái cười nụ nho nhỏ, rồi nói về (nhưng cũng là nói với) các bạn thơ đương thời: Bạn bè tôi cao ráo như nhau/ Đều bằng bặn lời ăn, nếp nghĩ/ Nho nhỏ tôi, phập phồng như gió/ Giữa lớn khôn đầy đặn bao người… Cấu trúc các khổ thơ tiếp nối nhau thành một khối vững chắc, hòa quyện sự nhún nhường, xúc cảm và tư tưởng: Mọi người ơi, cố chấp làm chi/ Có lúc lên cao, có khi xuống thấp/ Nho nhỏ tôi, đã ngoài thứ bậc/ Sao vẫn gập ghềnh, vẫn cứ bấp bênh… Sức khái quát mang dáng dấp cổ điển, nhưng sau những con chữ, là nụ cười nho nhỏ sống động và minh triết của thực tại:

            Nhưng dù sao,

                                    vẫn phía cuối cùng

            Chầm chậm đến bớt ồn ào, inh ỏi

            Nho nhỏ thôi, để dễ đi, dễ nói

            Để mọi người dễ nhớ,

                                                dễ gần nhau!

Nho nhỏ thôi!, nhưng là một tứ thơ thật sự không nhỏ chút nào, nó biểu đạt một cách độc đáo về con đường thi ca nói chung và cách đi của một thi sĩ trên đường thơ của riêng mình!                                       

2. Thơ của thời đại Đây biển Việt Nam!                                                     

Những năm cuối thế kỷ XX sang những năm đầu thế kỷ XXI, trong đời sống thơ ca Việt Nam hiện đại có nhiều nhà thơ trẻ, và cả những nhà thơ không còn trẻ nữa, bắt đầu làm cuộc đổi mới thi ca. Phần lớn trong số họ theo xu hướng săn tìm hình thức mới lạ cho ngôn ngữ thơ. Đã có những cuộc hội thảo lớn về vấn đề đổi mới thơ, có người còn có ý là “đổi gác” thơ. Không ít nhà thơ say sưa đi tìm kiếm “nàng thơ hậu hiện đại” dù chưa hình dung rõ dung nhan nàng ra sao... Trịnh Công Lộc là người nghĩ ngợi, nghiền ngẫm nhiều trước khi đặt bút viết một (hay một số) bài thơ, thì vấn đề đổi mới thơ, đương nhiên anh sẽ phải nghiền ngẫm rất nhiều. Hơn thế, trải nhiều năm trời công tác tại vùng biên viễn phía Đông Bắc, anh có lý do để nghiền ngẫm về cái mới trong tư tuưởng thơ, đặc biệt không thể không ngẫm nghĩ khi đã thực biết diễn biến sự kiện biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc đất nước năm 1978 - 1979, sự kiện 64 chiến sĩ quyết tử trên đảo Gạc Ma tháng 3 năm 1988, và rất nhiều lần các “tàu lạ” hoạt động vô lối ở biển Đông những năm đầu thế kỷ này. Trịnh Công Lộc, cũng đã hiểu rõ, thơ bao giờ cũng đòi hỏi sự đổi mới, để theo thời gian, nó phải luôn luôn mới hơn trước. Nhưng theo quy luật thì phải đổi mới nội dung tư tưởng thơ trước, đổi mới để thơ dễ vào lòng người đọc, thì tất yếu hình thức phải mới theo. Và ngay sau khi xuất bản tập thơ Cánh buồm nâu, Trịnh Công Lộc đem trình làng cái mới về tư tưởng thơ của anh, qua bài thơ Mộ gió lay động lòng người bởi xúc cảm sử thi:

            Mộ gió đây,

                              đất thành xương cốt

            cứ gọi lên là rõ hình hài…

                                                *

                        Mộ gió đây,

                                       những phút giây biển lặng

                        gió là tay ôm ấp bến bờ xa

                        chạm vào gió như chạm vào da thịt

                        chạm vào

                                      nhói buốt

                                                   Hoàng Sa…

                                                *

                        Mộ gió đây,

                                         giăng từng  hàng, từng lớp

                        vẫn hùng binh giữa biển - đảo xa khơi

                        là mộ gió,

                                       gió thổi hoài, thổi mãi

                        thổi bùng lên

                                                những ngọn sóng

                                                                           ngang trời!

Về bài thơ Mộ gió, tác giả của nó tâm sự thật bình dị: “Mộ gió có cả ngàn năm trước. Đấy là những ngôi mộ tượng trưng được người đời tạo thành sau những lễ chiêu hồn dành cho những người đi biển không về. Vào thời Gia Long và Minh Mạng (1802 đến 1841) mới có mộ gió ở Hoàng Sa, Trường Sa. Tôi đã tìm hiểu được những tư liệu và hình ảnh về mộ gió lịch sử. Cảm hứng từ lịch sử và những chuyến đi biển đảo, nhất là những lần ngủ trên sóng cận kề biên giới Tổ quốc trên biển, đã tạo thi hứng và chất liệu để tôi hoàn thành Mộ gió”. Nhà thơ Hữu Thỉnh nhận xét: “Bài thơ ẩn chứa sự đau đớn, cảm phục và tôn vinh một cách toàn bích hình ảnh anh dũng của người chiến sĩ nơi đầu sóng ngọn gió. Cảm xúc rất mạnh, dâng lên, dâng lên cao trào. Cấu trúc chặt, không rườm rà, tứ thơ cứ được đẩy lên đến vô tận. Không có chỗ “phô”. Tác phẩm dự thi của Trịnh Công Lộc thực sự là một bài thơ có tầm, hướng về giá trị lớn. Đó là sức mạnh của toàn dân tộc…”. Chúng tôi xin thông tin thêm: Ngay sau khi Trịnh Công Lộc viết Mộ gió, nhạc sĩ Vũ Thiết đã phổ nhạc thành bài hát Khúc tráng ca biển. Và rồi, trong cuộc thi thơ và nhạc mang tên “Đây biển Việt Nam” do Hội Nhà văn, Hội Nhạc sĩ cùng báo Vietnamnet tổ chức năm 2011, Trịnh Công Lộc đã được tặng Giải Nhì về thơ cho bài Mộ gió và Giải Nhì (không có Giải Nhất) về ca khúc (cùng nhạc sĩ Vũ Thiết)! Sau khi Mộ gió được vinh danh, các nhà thơ, nhạc sĩ đã sáng tác về biển đảo nhiều hơn hẳn mấy chục năm về trước. Trong đời sống thường ngày, những người quan tâm cũng nói nhiều tới mộ gió, nói nhiều tới biển, đảo và những vấn đề an ninh biển Đông. Trên báo Văn nghệ, nhà thơ Đặng Huy Giang đã đưa ra nhận dịnh: “Như vậy, Trịnh Công Lộc và Mộ gió đã tạo nên hiệu ứng xã hội và tạo nên một hội chứng mộ gió”.

Thực ra, trước khi viết Mộ gió, Trịnh Công Lộc cũng đã có nhiều bài thơ về biển, đảo, cả về rừng, núi trên biên giới và giữa biển khơi. Đôi khi chỉ vài câu mà anh khắc họa được hình ảnh thật cao đẹp về cuộc sống của những con người giữa trùng khơi: Tựa vào đá, sống cùng với đá/ vạn chài ơi, đã vạn năm rồi/ đá vẫn đứng, không trời nào lay nổi/ vẫn đi cùng ngư lính, đường khơi… (bài Đá và nước). Có khi chỉ đôi dòng thơ, Trịnh Công Lộc đã tạo nên một hình tượng thơ thật giàu biểu cảm: Mỗi đảo nhỏ như trái tim của biển/ những trái tim, nhịp đập trùng khơi (bài Lời của sóng)Chỉ ít ngày trước khi khi viết bài Mộ gió, Trịnhh Công Lộc đã sáng tác một bài thơ cũng tràn đầy cảm hứng sử thi, là bài Từ biển mà đi: Ông cha mình đã từ biển mà đi/ vẫn rành rọt sáng soi từng hải lý/ những luồng lạch nông, sâu/ bao lớp người đi giữ đảo, không về/ mỗi đảo nhỏ/ hóa thành ngọn nến/ thắp linh thiêng rừng rực trời sao… Do đã suy nghĩ lâu rồi, nghiền ngẫm kỹ rồi, và bởi đời sống đang đòi hỏi, nhà thơ đã lên tiếng:

                        Bây giờ,

                                    lại từ biển mà đi

                        nơi cuối chót Hoàng Sa

                                                            nơi Trường Sa cuối chót

                        đôi bờ vai,

 bát ngát biển trời

                        gánh bao nỗi gian truân đất nước

                        như Trường Sơn,

                                                gánh xương máu chiến tranh

                        như lịch sử gánh thăng trầm mỗi bước!

Viết đến đây, chúng tôi bỗng muốn nói thành lời, rằng, thơ Trịnh Công Lộc viết như trên thực sự là thơ của thời đại Đây biển Việt Nam! Chúng tôi cũng muốn điểm lại một vài mốc giới thời gian trong nửa cuối thế kỷ XX mà các nhà thơ lớn của nước ta ghi nhận về biển bằng thơ ca.  Những tác phẩm tiêu biểu mang tính đúc kết của Thơ chống Mỹ, là trường ca Những người đi tới biển của Thanh Thảo và trường ca Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh. Thời điểm đó, tư duy và xúc cảm thơ của thế hệ xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước là dốc sức, dốc lòng để tới được biển và đô thành. Mãi đến đầu thế kỷ XXI, sau những biến động nóng bỏng, biển Đông mới được các tác gia văn chương nhận thức lại. Không chỉ là việc nhìn nhận lại về những mộ gió được tạo nên hồi đầu triều Nguyễn; mà phải nhận thức thêm thật sâu cả mấy vạn năm trước, cũng như núi rừng, sông suối, đồng ruộng, biển đã gắn bó với không gian sống của người Việt, gắn bó với sinh mệnh của cả dân tộc Việt Nam! Cuộc nhận thức lại, nhận thức thêm này có ý nghĩa rất hệ trọng: người Việt ta đã bước sang một thời đại mới, thời đại Đây biển Việt Nam! Vậy nên, chúng tôi có thể nói, chính thời đại mới này đã tạo cho Trịnh Công Lộc một tư thế thơ ca mới, tư thế làm chủ cuộc sống, làm chủ văn chương, nên anh mới có được những bài thơ như Mộ gió Từ biển mà đi:

            Đây Hoàng Sa, đây Trường Sa cuối chót

            lại lên vai, bát ngát mà đi!

Hiện tượng thơ Trịnh Công Lộc - 2
Nhà thơ Trịnh Công Lộc (thứ ba từ phải sang) tại Lễ trao giải thưởng sáng tác về biển đảo - Hội Nhà văn Việt Nam

3. Nhân bản trên đất nước muôn đời

Trịnh Công Lộc không chỉ dành nhiều tâm sức viết về biển và đảo, anh còn có nhiều thơ về sông, đơn cử dòng sông Trà Lý trước nhà anh đã vào bài thơ Cánh buồm nâu mà chúng tôi đã nói tới ở trên. Trịnh Công Lộc có nhiều thơ về núi, rừng, làng bản nơi biên giới, và thơ về rừng giữa trùng khơi nữa. Bài Đảo rừng trâm, anh viết để tưởng nhớ liệt sĩ Trịnh Văn Vũ nơi huyện đảo Minh Châu: Giữa cát mặn, rễ sâu, trâm cao xanh mãi/ Phong phanh ngực cát làng chài… Trịnh Văn Vũ cùng các chiến sĩ của mình bám trụ ở đảo này, khi mùa cá Nam thất bát, phải nhặt quả trâm ăn cho qua cơn đói, và: Mùa thả lưới cũng mùa trận mạc/ Người ra khơi có lúc không về/ Những lúc ấy cả rừng trâm ngơ ngác/ Lá lao xao níu chặt thân cành…/ Anh ngã xuống, còn ôm chiến sĩ/ Như rừng trâm ôm giữ lấy nhau! Sinh mệnh con người và cây rừng giữa mênh mông biển sóng gắn bó đến vậy, là do căn tính sâu xa truyền đời trong máu, trong hồn Việt Nam, đã được đúc kết trong câu ngạn ngữ cổ đầy tính nhân bản “sống nhờ đất chết gửi thân cho đất”. Đại ngàn ở biên cương phía Bắc: Núi tiếp núi chập chùng vi vút/ Vời vợi xa, sương gió về đâu/ Dốc thẳng đứng, yên cương lưng ngựa/ Gió cuộn bay vun vút ngàn sâu… (bài Đỉnh núi). Bút lực của nhà thơ thật mạnh, đâu chỉ là cảm tác về một đỉnh núi, đây là thơ về Tổ quốc, không gian sống ngàn đời của người Việt Nam ta, rộng lớn và hùng vĩ, và linh thiêng: …là núi/ là sông/ là biển/ Núi ngất cao, sông biển rộng dài/ Sông với biển giăng thành như núi/ Giữ bình yên bờ cõi đất đai! Nơi mênh mông trên nền biển cả thì mỗi hòn đảo như một trụ trời: Song Tử - như trụ trời - bất tử (bài Ngàn xa); còn ở chốn hun hút ngàn sâu thì:

            Mỗi tấc đất,

                             đã bao nhiêu máu

            Thấm lên từng vách núi, ngọn cây

            Mỗi đỉnh núi một bàn thờ Tổ quốc

            Ngát linh hương nghi ngút trời mây!

Ở trên, chúng tôi đã nói về đời sống văn chương nước ta cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI có hiện tượng nhiều nhà thơ trẻ và cả những nhà thơ không còn trẻ nữa muốn làm cuộc đổi mớ thi ca… Bây giờ, chúng tôi xin nói thêm rằng, không phải mỗi khi ai đó dấy lên cuộc đổi mới thi ca các nhà thơ Việt Nam ta mới để tâm tới việc làm mới thơ. Thực tế cho thấy, thi nhân bất cứ dân tộc nào, thời đại nào cũng luôn gắng sức làm cho thơ mới hơn. Chính vì thế mà tiến trình thơ ca nhân loại luôn phát triển, đẹp hơn và nhân văn hơn. Thơ ca nước Việt ta cũng tiến triển theo quy luật như thơ ca nhân loại! Viết về hiện tượng thơ Trịnh Công Lộc, thực sự chúng tôi thấy trong thơ anh có yếu tố Ấn tượngSiêu thực. Chẳng hạn: Giữa biển/ Quốc lộ chỉ là nước/ Lênh đênh và lênh đênh (bài Giữa biển); và những câu thơ về người thợ mỏ mở đường than (bài Vào ca than): tháng năm tầm tã/ lấy da thịt vá trời/ lấy máu xương vá đất/ vuốt nhọn gian nan; và nữa, (bài Ca dao): Mùa đông se sắt lên môi/ Mùa hạ mưa về xối xả/ Ca dao lượn bay khắp ngả/ Mà không ướt áo câu nào!... Chúng tôi vẫn cho rằng, chủ nghĩa Ấn tượng, chủ nghĩa Siêu thực được những tác gia danh tiếng khởi lên ở Âu - Tây, từ nền văn hóa và bối cảnh xã hội Âu - Tây hơn trăm năm trước. Những thành công đích thực của thơ Ấn tượng và thơ Siêu thực đã trở thành những giá trị văn hóa. Những giá trị văn hóa đó được các tác gia nhiều dân tộc trên thế giới tiếp nhận qua bộ lọc văn hóa dân tộc mình; và, hết sức quan trọng là, những tác gia ấy viết với tâm hồn mình về những vấn đề đời sống của đất nước mình. Do vậy, những vẻ đẹp của Ấn tượng, Siêu thực và cả Hiện sinh nữa, đã nảy nở thành những giá trị văn hóa đẹp đẽ trong văn chương nhiều dân tộc, nhiều quốc gia trên thế giới hàng trăm năm qua, trong đó có cả không ít nhà thơ Việt Nam ta. Là một người học Văn, lại đọc nhiều, tất nhiên Trịnh Công Lộc đã tiếp thu được những cái đẹp văn hóa đó. Và, anh viết bằng tâm hồn Việt về những vấn đề nhân bản trong đời sống của người Việt Nam ta. Là một nhà thơ đi nhiều, viết nhiều về đời sống ở các vùng, miền đất nước, và cảm hứng sử thi luôn là âm hưởng chủ đạo trong thơ Trịnh Công Lộc, khiến anh có một bút lực hơn người. Đơn cử bài Mở cõi biển Đông:

Cánh buồm nâu, lưng trần bám biển

Vượt nghìn trùng mở cõi xa khơi

Thuở khai khẩn vỏ sò vỏ ốc

Những cô thân cực bắc, cực nam

Đã hóa thạch, mảnh hồn gửi lại

Mãi rưng rưng sóng cát cuối trời…

Đó là lịch sử biển trong biên niên sử dựng nước! Những câu thơ trên cũng có yếu tố siêu thực. Nhưng chúng tôi nghĩ, quan trọng hơn hết là thơ phải hay thì mới vào được lòng người đọc. Mà thơ hay, nhất thiết phải chứa đựng những giá trị nhân bản. Bài thơ Mở cõi biển Đông, trong cảm thức thẳm sâu của nhà thơ, thi thể người muôn năm cũ đã hóa thạch, anh linh đã đọng lại thành hồn, còn mồ hôi nước mắt thì kết thành “mặt trời”: Khi An Tiêm gieo hạt cây xuống đảo/ Mỗi trái dưa như một mặt trời/…Mở cõi biển, thênh thang cõi đất/ Tấc máu tấc xương hằn vết chân đi. Mở nước từ cả vạn năm trước, mà giữ nước, cũng đã từ nghìn đời xưa cho đến tận bây giờ:  

            Thuở giữ nước,

giữ đất đai, biển đảo

                        Chém cá Kình dậy sóng biển Đông

                        Tàu Không Số hóa thân giông bão

                        Sóng vút cao cuộn trắng thân tàu…

                                                 *

                        Mới sinhh ra đã thành ngư lính

                        Chống giặc nước

                                                  giặc trời

                                                            giặc dã Biển Đông

                        Tiếng sóng gọi trùng trùng lay thức

                        Còn vang xa, rừng rực bây giờ…

Mỗi nhà thơ là một thân phận riêng đến với thi ca, sử dụng ngôn ngữ với những tiết tấu, âm luật riêng để biểu đạt cái tôi trữ tình của mình. Trịnh Công Lộc cũng vậy. Thơ anh xoáy sâu vào cái tôi trữ tình, song không phái cái tôi nhỏ yếu, mà là cái tôi mạnh mẽ giàu tính nhân bản anh có được sau thật nhiều nếm trải. Chúng tôi mạnh dạn nhận định rằng, Trịnh Công Lộc đã đóng góp cho đời sống thơ ca đương đại nước ta một cái tôi trữ tình thực sự mới. Và đến nay, anh vẫn đang tiếp tục đi trên đường đời, đường thơ của mình!

Thanh Am, Long Biên tháng 8 - 2021

                                                                                       

Anh Chi

Tin liên quan

Tin mới nhất