Kinh tế Việt Nam phục hồi trong bối cảnh bất ổn của kinh tế toàn cầu

Từ tầm nhìn tổng hợp của định chế tài chính khu vực và thực trạng kinh tế nước ta, bài viết hệ thống lại một số nội dung để cùng suy ngẫm.

Như đã trở thành thông lệ, tháng 4 hằng năm, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố báo cáo triển vọng phát triển châu Á (ADO) trong năm. Báo cáo đã cập nhật tình hình kinh tế khu vực và dành một chương riêng về  tổng quan  kinh tế Việt Nam với những triển vọng của năm 2022 và 2023. Theo đó, Kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ phục hồi ở mức 6,5% năm nay và tăng trưởng mạnh hơn ở mức 6,7% trong năm 2023. Báo cáo trong ngày còn cho biết, đợt bùng phát đại dịch COVID-19 mới đã cản trở phục hồi kinh tế Việt Nam, thắt chặt thị trường lao động và làm gián đoạn chuỗi cung ứng, song nền kinh tế vẫn đang lấy lại được đà tăng trưởng. Từ tầm nhìn tổng hợp của định chế tài chính khu vực và thực trạng kinh tế nước ta, bài viết hệ thống lại một số nội dung để cùng suy ngẫm.

Kinh tế Việt Nam-những hoạt động nổi bật trong thời gian qua

Sự bùng phát trở lại của đại dịch COVID-19 vào tháng 4 năm 2021 đã thắt chặt thị trường lao động, gây gián đoạn chuỗi cung ứng, khiến đà tăng trưởng kinh tế đã bị chậm lại, cả năm 2021nền kinh tế nước ta chỉ đạt mức tăng trưởng 2,6%. Gần đây, nhờ tỷ lệ tiêm chủng nâmg cao, Chính phủ đã dỡ bỏ các biện pháp kiềm chế nghiêm ngặt để thúc đẩy thương mại và tiếp tục chính sách tài chính, tiền tệ mở rộng. Nhờ đó, nền kinh tế được dự báo sẽ phục hồi mạnh mẽ trong năm nay và vào năm tới. Tuy nhiên, rủi ro triển vọng là sự xuất hiện của làn sóng COVID-19 mới và quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu chậm hơn so với dự kiến. Thách thức về mặt chính sách là đảm bảo thực hiện nhanh chóng và hiệu quả chương trình phục hồi và phát triển kinh tế để thúc đẩy tăng trưởng.

Sự phục hồi nhanh chóng của ngành công nghiệp trong những quý đầu năm nhờ vào xóa bỏ được hạn chế di chuyển nghiêm ngặt trong đại dịch COVID-19, Theo đó, các biện pháp nới lỏng được áp dụng từ tháng tháng 10 năm 2021 đã giúp phục hồi tăng trưởng với sản lượng gia tăng ở mức 4,0%. Tuy nhiên, tăng trưởng dịch vụ vẫn giảm từ mức 2,3% của năm 2020 xuống còn 1,2%. 

Số liệu thống kê cho thấy, lượng khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2021 giảm 96%, nhưng đã được bù đắp lại nhờ dịch vụ y tế và tài chính được hồi phục từ  Q 4 năm 2021. Do nhu cầu lương thực của nhiều nước và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa gia tăng trở lại, ngành Nông nghiệp Viêt Nam năm 2021 đạt mức tăng trưởng 2,9%, cao hơn  mức 2,7% của năm 2020,.

Thị trường lao động chịu những cú sốc nghiêm trọng từ cả phía cung và cầu khi nền kinh tế suy yếu và người lao động rời bỏ nơi làm việc, dẫn tới giảm 2,0 triệu lao động trong quý 3/2021. Về đời sống, tiêu dùng cá nhân tăng 2,0%, cao hơn mức 0,6% của 2020, nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,4% trong năm 2019. Do tỷ lệ thất nghiệp cao và thu nhập giảm thấp, tiêu dùng cá nhân đã bị hạn chế. Đáng lưu ý là trong tiêu dùng công, Chính phủ đã cắt giảm chi thường xuyên nên năm 2021 đã giảm từ 6,2% xuống còn 2,9% . 

Phục hồi Kinh tế Việt Nam sau Covid-19     Ảnh minh họa

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng khoảng 4,0%, nhưng vẫn chỉ bằng 1/2 mức tăng trước đại dịch. Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký tăng 9,2%, nhưng cơ chế phối hợp thiếu chặt chẽ giữa trung ương và địa phương khiến giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chậm lại, giảm 1,2% so với cùng kỳ  của năm 2020. 

Mặc dù ảnh hưởng do COVID-19 còn nặng nề, song hoạt động xuất nhập khẩu đạt kết quả tốt; mặt khác, lạm phát đã từ 3,2% của năm 2020 xuống còn 1,8%  trong năm 2021, là mức thấp nhất kể từ năm 2016. Với lạm phát thấp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã duy trì chính sách tiền tệ mở rộng và giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức thấp kỷ lục kể từ tháng 10 năm 2020. 

Ngân hàng Trung ương cũng đã điều chỉnh được hạn mức tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại với tổng mức miễn, giảm lãi suất lên tới 1,5 tỷ USD. Hoạt động kinh tế phục hồi kể từ tháng 10 năm 2021 đã khôi phục tín dụng gia tăng trong những tháng cuối năm, đưa tăng trưởng tín dụng cả năm lên13,6% so với mức tăng12,2% của năm 2020 . 

Nhìn chung, cho dù đại dịch có những tác động bất lợi về kinh tế, song rủi ro ổn định tài chính năm 2021 vẫn trong tầm kiểm soát. Chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng đã góp phần làm gia tăng Chỉ số VN-Index lên cao kỷ lục. Tổng giá trị trái phiếu chính phủ phát hành trong năm 2021 đạt tương đương 13,7 tỷ USD, tăng 32% so với năm 2019. Tuy nhiên, nguy cơ ổn định tài chính đã dần xuất hiện với sự tăng trưởng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp thông qua các đợt phát hành riêng lẻ. Số lớn trái phiếu phát hành chưa có tài sản bảo đảm và không được xếp hạng tín nhiệm đã gây lo ngại về những rủi ro tiềm ẩn. Nợ xấu có thể tiếp tục gia tăng khi cơ cấu lại khoản vay và giữ nguyên các nhóm nợ..

Trong hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động xuất nhập khẩu có những kết quả ấn tượng; kim ngạch xuất khẩu thương mại hàng hóa từ mức 7% của năm 2020 tăng lên 19% trong năm 2021 với các mặt hàng điện thoại di động, máy tính và  hàng điện tử chiếm tới 32% tổng kim ngạch xuất khẩu. Đáng chú ý là, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 28,4% thị phần trong tổng giá trị xuất khẩu, tiếp theo là Trung Quốc, mặc dù  Chính sách  của quốc gia này đã cản trở xuất khẩu vào năm 2021 và 2 tháng đầu năm 2022.

Do nhu cầu phục hồi sản xuất và tiêu dùng tăng cao làm gia tăng nhập khẩu, khiến thặng dư thương mại bị thu hẹp, cùng với giảm thu ròng từ dịch vụ làm cán cân vãng lai thâm hụt khoảng 1,1% GDP. Nhờ dòng vốn FDI tiếp tục đổ vào, thặng dư tài khoản vốn giữ ở mức 8,5% GDP đã giúp cán cân thanh toán tổng thể có thặng dư 3,9% GDP  và dự trữ ngoại hối cuối năm 2021 ước tính tương đương với 3,9 tháng nhập khẩu. 

Bội chi ngân sách tăng lên mức 3,8% GDP. Do thuế thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng 22%, và thu từ dầu mỏ tăng 32%; thu ngân sách cả năm 2021 tăng 1% đã bù trừ một phần thâm hụt nội địa do hoạt động kinh tế yếu đi. Chi tiêu chính phủ tăng 3% so với năm trước và đáng chú ý là, Chính phủ đã gia tăng chi tiêu cho COVID-19 nhưng lại chậm giải ngân vốn đầu tư công.

Đại dịch làm cho quá trình thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước chậm lại; năm 2021, thu từ thoái vốn và cổ phần hóa các doanh nghiệp chỉ đạt 14,5% kế hoạch. Chất lượng tài sản ngân hàng bị ảnh hưởng bởi hoạt động kinh tế suy yếu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ vào năm 2021 khoảng 2,0% và tông nợ xấu, bao gồm cả các khoản nợ bán cho Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam (VAMC) chưa được xử lý và các khoản cho vay khác có rủi ro trở thanh nợ xấu ước tính lên tới 3,8% tổng dư nợ.

Triển vọng kinh tế Việt nam từ tầm nhìn Ngân hàng Phát triển châu Á

Trong thông cáo báo chí ngày 6 tháng 4 năm 2022, Ngân hàng Phát triển châu Á cho biết, Việc mở cửa trở lại hoạt động du lịch vào giữa tháng 3 và nới lỏng các biện pháp kiểm soát đại dịch được kỳ vọng sẽ thúc đẩy dịch vụ, theo đó dự báo tăng trưởng ngành dịch vụ trong năm  có thể đạt 5,5%. Đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công sẽ thúc đẩy xây dựng và các hoạt động kinh tế có liên quan, Cùng với phục hồi kinh tế và bất ổn của giá dầu toàn cầu, lạm phát được dự báo ​​sẽ lên 3,8% trong năm 2022 và tăng lên  4,0% vào năm 2023. Dịch chuyển lao động được phục hồi và tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý các cấp sẽ khôi phục niềm tin của các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Với Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2022, ​​niềm tin này sẽ mở ra khả năng đẩy mạnh hoạt động thương mại để hình thành các thị trường xuất khẩu ổn định và đáng tin khi đai dịch lắng xuống

Trong triển vọng phát triển, báo cáo ADO 2022 nêu rõ những rủi ro ngắn hạn có thể cản trở phục hồi nền kinh tế. Tình trạng nhiễm COVID-19 cao kể từ giữa tháng 3, nếu không giảm bớt sẽ cản trở trạng thái bình thường mới. Mặt khác, nền kinh tế toàn cầu phục hồi chậm lại và giá dầu tăng mạnh cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu và lạm phát.Ngoài ra, khả năng hồi phục kinh tế còn phụ thuộc vào việc Chính phủ triển khai nhanh chóng và hiệu quả những chương trình phục hồi và phát triển. 

Kinh tế Việt Nam tiếp tục phục hồi trên nền tảng vĩ mô ổn định.                      Ảnh VOV

Phục hồi kinh tế có thể đạt được nhờ tỷ lệ tiêm chủng COVID-19 cao và chuyển hướng tiếp cận linh hoạt hơn trong kiểm soát đại dịch. Ở Viêt Nam, tínhh đến 22 tháng 3 năm 2022,đã có  gần 80% dân số trên 18 tuổi được tiêm chủng đầy đủ và 50% được tiêm chủng mũi thứ ba. Tỷ lệ tiêm chủng cao cho phép Chính phủ gỡ bỏ các biện pháp kiềm chế nghiêm ngặt, gây gián đoạn họat động kinh tế. Sự chuyển hướng kịp thời trong chiến lược kiểm soát dịch bệnh giúp khôi phục kinh tế và giảm sự bất ổn về môi trường kinh doanh. Cùng với những tác động trực tiếp của các ngành công nông nghiệp và thương mại, tỷ lệ tiêm chủng cao sẽ tạo thuận lợi để Việt Nam có thể tăng trưởng sau đại dịch. Từ những luận cứ nêu ra, các nhà phân tích cho rằng, tăng trưởng GDP của Việt Nam sẽ đạt 6,5% năm 2022 và lên 6,7% trong năm 2023. Điều bày cũng được đảm bảo bằng niềm tin của doanh nghiệp và đông đảo người dân.

Kết quả khảo sát của Tổng cục Thống kê về xu hướng kinh doanh trong lĩnh vực chế biến chế tạo  gần đây cho thấy 81,7% số doanh nghiệp được hỏi tin rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn trong năm 2022. Trong quý 1 năm 2022, tăng trưởng GDP đã đạt trên 5,0%, cao hơn mức 4,7% của năm trước. Trung tuần tháng 01năm 2022 Quốc hội Viêt Nam đã phê chuẩn gói giải pháp tài khóa và tiền tệ, ước tính lên trên 15 tỷ USD để triển khai Chương trình Phục hồi và phát triển kinh tế (ERDP). Trong đó, 11,5 tỷ USD bao gồm các giải pháp tài khóa như chính sách miễn, giảm thuế, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, phát triển cơ sở hạ tầng và an sinh xã hội; hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp và các hộ kinh doanh sẽ được thực hiện. Giải pháp của chương trình cung cấp thêm thanh khoản cho nền kinh tế thông qua việc các tổ chức tín dụng được ​​giảm lãi suất cho vay 0,5% -1,0% và tiếp tục thực hiện các biện pháp hỗ trợ tín dụng cho đến hết năm 2023. 

Theo các nhà phân tích, thị trường lao động phục hồi và các biện pháp kích cầu sẽ thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp để đạt tăng trưởng 9,5% trong năm 2022 và đóng góp tới 3,6 % vào mức tăng GDP. Công nghiệp đã khởi đầu mạnh mẽ với chỉ số nhà quản trị mua hàng đạt 53,7 vào tháng 1/2022 và lên 54,3 trong tháng 2 là tháng tăng trưởng thứ tư liên tiếp. Nhờ sự phục hồi của nhu cầu nội địa và giá hàng hóa toàn cầu gia tăng, sản lượng nông nghiệp được dự báo sẽ tăng 3,5% trong năm 2022, đóng góp 0,4 % vào tăng trưởng GDP. Các chính sách tái mở cửa du lịch thực hiện trong tháng 3 và dự kiến dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát đại dịch sẽ thúc đẩy mạnh lĩnh vực dịch vụ, với dự báo tăng 5,5% và đóng góp 2,3 % vào tăng trưởng GDP trong 2022

Chương trình ERDP sẽ gia tăng đầu tư công và kích cầu nội địa; tăng cường sự phối hợp giữa các cấp quản lý và phục hồi dịch chuyển lao động sẽ giúp tăng niềm tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước về khả năng phục hồi kinh tế. Chỉ số môi trường kinh doanh của Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam quý 4 năm 2021 cho thấy. doanh nghiệp Châu Âu đã đánh giá tích cực và lạc quan về môi trường kinh doanh của Việt Nam sau khi Chính phủ nới lỏng các biện pháp nghiêm ngặt trong kiểm soát COVID-19. 

Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục tăng mạnh trong năm 2022.Theo những dự báo của ADB, xuất khẩu hàng hóa sẽ tăng 8%-10% trong năm nay. Do nhu cầu về tư liệu sản xuất gia tăng và tiêu dùng trong nước phục hồi nhập khảu cũng sẽ tăng cao. Ngoài ra, sự phục hồi của du lịch và lượng kiều hối bền vững sẽ giúp tăng thặng dư tài khoản vãng lai ở mức 1,5% GDP trong năm nay và 2,0% vào năm 2023.

Phân tích thực trạng kinh tế xã hội viêt Nam, các nhà nghiên cứu của ADB nhận thấy, triển vọng dài hạn có nhiều song vấn bị ảnh hưởng bởi những rủi ro ngắn hạn. Số ca nhiễm COVID-19 tăng cao kể từ giữa tháng 3 năm 2022 có thể cản trở quá trình bình thường của nền kinh tế. Tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu chậm lại và giá dầu tăng cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu và lạm phát. Ngoài ra, những bất ổn trên thị trường tài chính và những nền kinh tế lớn ngừng thực hiện chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng sẽ làm suy yếu đồng nội tệ Việt Nam, làm cho nhập khẩu đắt hơn và gia tăng áp lực lạm phát. Cuối quý 1 năm 2022, lạm phát bình quân cả nước đã tăng lên 1,9%, so với mức 0,3% của một năm trước đó. Lạm phát được dự báo sẽ tăng lên 3,8% vào năm 2022 và 4,0% vào năm 2023. 

Nợ xấu gia tăng là một rủi ro trung hạn. Nếu tính thêm các khoản cho vay được cơ cấu lại vẫn giữ nguyên nhóm nợ, tỷ lệ nợ xấu tiềm năng của Việt Nam được ước tính lên tới 8,2% tổng dư nợ. Bên cạnh chi phí vật liệu xây dựng tăng nhanh, thủ tục giải ngân vốn đầu tư công phức tạp có thể làm chậm việc triển khai chương trình ERDP, hạn chế này sẽ giảm tác động mong muốn đối với tăng trưởng tương lai.

Thách thức trong phục hồi và phát triển kinh tế sau Covid-19 dưới góc nhìn nghiên cứu

Để ứng phó với sự bùng phát của đại dịch COVID-19, từ tháng 4 năm 2020 đến tháng 7 năm 2021, Chính phủ  Việt Nam đã khởi động 2 chương trình hỗ trợ tài chính và tiền tệ nhằm giải quyết những tác động kinh tế của đại dịch. Tiếp sau đó, vào tháng 1 năm 2022, Quốc hội nước Việt Nam đã thông qua Nghị quyết về giải pháp tài chính và tiền tệ để đẩy nhanh thực hiện chương trình ERDP. Việc triển khai hiệu quả chương trình có vai trò quan trọng để Việt Nam khôi phục động lực tăng trưởng. Tuy nhiên, việc thực hiện còn gặp nhiều thách thức. 

Theo các nhà nghiên cứu thì phát triển cơ sở hạ tầng là một trong những cấu phần quan trọng của chương trình. Hoạt động ERDP được phân bổ khoảng 5 tỷ USD (113 nghìn tỷ đồng) ngân sách, Do do vấn đề mang tính hệ thống trong cả quá trình chuẩn bị, phê duyệt và giải ngân bị giới hạn bởi thủ tục đầu tư công phức tạp và cứng nhắc, đặc biệt là việc thu hồi đất đai, tái định cư và mua sắm đấu thầu nên việc đảm bảo triển khai cấu phần hạ tầng đã gặp nhiều rủi ro. Nhằm thực hiện kịp thời quá trình này, cần phải đơn giản hóa triệt để và thay đổi các quy định về đầu tư công cũng như công tác phối hợp chính sách.

Tổng mức hỗ trợ lãi suất của Chương trình ERDP lên đến 40 nghìn tỷ đồng (khoảng 1,7 tỷ USD), là là nguồn tài khóa chính. Chương trình dự kiến ​​sẽ thúc đẩy mạnh tổng cầu, nhưng do mức độ tín nhiệm và khả năng hồi phục (điều kiện quan trọng có thể tiếp cận các khoản vay) của nhiều doanh nghiệp , nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa lại khó đáp ứng được các tiêu chí cho vay. Một quan ngại khác là chương trình hỗ trợ lãi suất có thể gặp rủi ro do các khoản vay được trợ cấp bị sử dụng sai mục đích hoặc đầu tư vào lĩnh vực chịu nhiều rủi ro, như cổ phiếu hoặc bất động sản. Để tránh xảy ra tình huống xấu, cần có hướng dẫn rõ ràng và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan nhằm tăng cường giám sát việc thực hiện ERDP.

Cấu phần tài khóa quan trọng của ERDP là giảm 2% thuế giá trị gia tăng (VAT) cho các sản phẩm và dịch vụ hiện đang chịu mức thuế VAT 10% với tổng giá trị cắt giảm khoảng khoảng 2,1 tỷ USD. Giảm thuế VAT có thể tác động đáng kể và trên diện rộng nếu được thực hiện thành công. Tuy nhiên, các tiêu chí đáp ứng điều kiện và thủ tục lại rất phức tạp, có thể hạn chế khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp đối với chính sách giảm thuế nên  cần có những tiêu chí  nhằm đáp ứng được điều kiện và thủ tục rõ ràng, minh bạch để hỗ trợ thực hiện chính sách giảm thuế một cách nhanh chóng.

Thay cho lời kết

Trong thông điệp về phục hồi kinh tế Viêt Nam sau đại dịch covid-19, các nhà phân tích của ADB đã chỉ ra: Do tỷ lệ tiêm chủng cao, chuyển hướng kiểm soát dịch bệnh linh hoạt hơn, có thể thúc đẩy thương mại tăng tăng trưởng và tiếp tục thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng; kinh tế Việt Nam đã sẵn sàng phục hồi ở mức 6,5% trong năm nay và tăng trưởng mạnh hơn ở mức 6,7% trong năm 2023. Tuy nhiên, số ca nhiễm mới cao, việc xuất hiện các chủng virus Covid nguy hiểm có thể ảnh hưởng đến phục hồi kinh tế cùng với gia tăng căng thẳng địa chính trị toàn cầu do những cuộc chiến tranh cục bộ nổ ra có thể gây tác động tiêu cực lan truyền đến nhiều nước thông qua qua tăng giá năng lượng và các hàng hóa khác cao hơn  Mặt khác, chính sách thắt chặt tiền tệ của Cục dự trữ liên bang hoa Kỳ có thể gây nên biến động thị trường tài chính, các luồng vốn chảy ra, đồng tiền giảm giá và gia tăng các rủi ro bất ổn tài chính trong các khu vực. Do vậy, việc chậm thực hiện các biện pháp hỗ trợ tài khóa và tiền tệ có thể làm chậm sự phục hồi cả nền kinh tế.

Từ những vấn đề gợi ra, bài viết hy vọng mang tới cho bạn đọc quan điển cơ bản của Ngân hàng Phát triển châu Á trước những vấn đề đặt ra nhằm phục hồi và tăng trưởng kinh tế Viêt Nam sau đại dịch Covid-19./.

Lê Thành Ý

None

Tin liên quan

Tin mới nhất